Từ kinh thành Ba La Nại, ngược dòng sông hằng độ ba bốn ngày
đường, người ta đi kiếm một khu rừng rậm của dãy Hy Mã Lạp Sơn. Khu rừng già
này có rất nhiều cây gỗ quý. Ven rừng, bên triền sông, một đám nhà lá san sát
nhau, đây là một làng nhỏ. Dân làng kể cả đàn ông, đàn bà và trẻ em độ trên vài
trăm người. Họ sống về nghề làm gỗ. Họ hạ cây, xẻ ván ghép thành bè chở về bán
tận kinh thành. Công việc tuy vất vả nhưng họ kiếm được khá tiền để nuôi miệng
họ và cả gia đình.
Một hôm kia, trong lúc mọi người trong làng đang hì hục đốn cây,
cưa gỗ trong rừng, họ nghe có chân thình thịch bước đến và tiếng rống đau đớn.
Rồi một con voi khổng lồ hiện ra, nhắc bước nặng nhọc trên ba chân. Chân trước
bên phải của nó nâng lên khỏi mặt đất bàn chân sưng húp lên. Nó chậm rải, nhăn
nhắc, tiến đến rừng các thợ rừng, tỏ ý cầu cứu họ. Thấy dáng điệu hiền lành của
voi, một người thợ rừng đến gần, vết thương đang làm mủ. Cũng khá trầm trọng,
nhưng đối với các người thợ rừng quen sống trong rừng sâu và từng gặp những tai
nạn như thế, họ thấy không khó khăn gì trong việc cứu chữa cho voi. Họ gỡ gai
ra, nặn hết mủ, rồi rửa chân voi bằng nước nóng. Họ hái lá, nhai nhỏ, rịt vào
vết thương. Voi thấy dễ chịu, nhẹ hẳn đi. Và chỉ còn thời gian là vết thương sẽ
lành. Voi gật đầu ba lần tỏ vẻ cám ơn rồi từ biệt.
Thời gian qua. Người ta cũng không nhớ ra câu chuyện trên đã xảy
ra đã bao lâu rồi. . . Bỗng một hôm, một con voi đã đi vào giữa đám thợ đang
làm việc. Phải rồi chính là con voi hôm nọ. Nhưng trông nó mập mạp, tươi trẻ
hơn hôm trước nhiều. Vết thương ở chân đã lành hẳn rồi. Nó bước mạnh dạn. Nó
đến bên người đã cứu chữa cho nó hôm trước mà quỳ xuống. Nó tỏ ý muốn gíúp đỡ
các người thợ rừng để trả ơn họ. Không ai ngờ lại có câu chuyện như thế. Người
ta đứng im xem nó làm gì. Voi đứng dậy, đến bên các cây vừa hạ xong, dùng vòi
khuân các thân cây to đem đến chỗ cưa rồi những bó gỗ từ trại cưa đến bờ sông.
Sức khoẻ của nó thật là kinh khủng. Nó làm một cách gọn gàng công việc của vài
mươi người. Thế là từ đó, trong đoàn thợ gỗ có thêm một năng lực vô cùng dồi
dào và chen vào trong tiếng cưa, tiếng búa đốn cây, lâu lâu lại có tiếng voi
rống trầm hùng, vui vẻ.
Năm, tháng trôi qua, sức khoẻ của voi không còn như buổi mới đến.
Các người thợ rừng cũng thấy rõ điều ấy nên không để voi làm nhiều. Cho nên một
hôm voi thấy không thể tiếp tục công việc nặng nhọc được nữa, nó cúi chào mọi
người rồi đi lẫn vào rừng sâu. Ai cũng thương nó đã giúp quá nhiều cho họ.
Nhưng đến chiều, voi lại trở về và dẫn theo một con voi trẻ đẹp.
Ðây là con voi con, chịu tuân theo lời cha, đến đây để thay thế cha nó mà trả
ơn cho các người thợ rừng. Thật là cảm động. Nhiều người thợ rừng đã rưng rưng
nước mắt.
Voi con tiến đến gần. Lông nó trắng như
tuyết. Ðôi mắt voi sâu, hiền lành và cương quyết. Toàn thân voi như thoát lên
một oai lực làm cho mọi người kính nể. Ðích rồi! Voi con là một con voi chính
thống. Cũng cần phải nhớ rằng đời xưa, voi chính thống có một thể lực lạ thường
trong các trận chiến tranh. Sức khỏe nó, hơi hám nó có thể trong phút chốc làm
tan rã bao đàn voi của địch quân để đem lại thắng lợi chắc chắn cho chủ nó.
Voi con làm tất cả công việc trước đây cha nó
đã làm cả ngày. Voi hết sức gíúp đỡ các người thợ rừng, rồi đến chiều voi trở
về làng chơi đùa với bọn trẻ con sau khi đã tắm rửa sạch sẽ. Mọi người vì thế
đều thương mến và kính phục voi.
Có một điều lạ là duy nhất có nhiều lúc phải
lăn lộn ngoài sông nhưng không bao giờ voi đại tiện bừa bãi trong dòng nước.
Những đống phân của voi khi nào cũng tìm thấy ở nơi cao ráo và kín đáo.
Nhưng cuộc đời không luôn bình thường như
thế, có một lần trời mưa to suốt ba ngày. Nước sông Hằng dâng lên ngập cả vùng.
Nhiều bè gỗ bị nước cuốn trôi phăng. Dân làng bị thiệt hại nhiều, và đến khi
nước rút xuống, nước cũng đã rút theo các đống phân voi. Những đống phân to này
lềnh bềnh trôi đi và một hôm tình cờ đưa dạt vào bờ, trong đám lau gần kinh
thành Ba La Nại. Chỗ này lại là chỗ bầy voi của nhà vua thường tắm.
Khi trời nắng ráo lên, bọn quản tượng nhà
vua, lại dẫn voi đi tắm. Ðến nơi, cả bầy voi năm trăm con cùng nhận ra một mùi
đặc biệt, mùi của con voi chính thống, một con voi chúa. Cả bầy voi dừng lại,
không con nào dám xuống nước. Rồi bỗng chúng sợ hoảng lên, dựng thẳng đuổi, cắm
đầu chạy trốn mặc sức cho bọn quản tượng tìm hết cách trấn tĩnh chúng, không ai
hiểu nguyên do kỳ lạ này. Sau cùng, nhờ kinh nghiệm của một quản tượng cao
niên, họ dự đoán rằng: Tất trong nước sông có điều gì khác thường. Theo ý đó,
người ta tìm tòi và thấy được trong đám lau, vật “quý báu” trên kia. Ðiều này
đã làm họ nghiệm rằng trên dãy rừng Hy Mã Lạp Sơn phải có một con voi chính
thống. Họ tâu lên nhà vua điều nhận xét của họ. Vua Ba La Nại mừng rỡ vô cùng.
Ngài truyền lệnh chuẩn bị thuyền lương để vượt ngược sông Hằng.
Nhà vua đã mất công tìm kiếm nhiều ngày ròng
rã. Mãi đến hôm kia nhà vua đến làng của đoàn thợ rừng đông đảo. Nghe vua đến,
mọi người đều nghỉ tay, cùng với vợ con họ ra bờ sông để đón tiếp. Có người đã
nói với vua:
Tâu Bệ hạ nếu ngài cần dùng đến gỗ, cần dùng
đến chúng con thì không phiền gì Ngài phải đến đây, nhọc thân Ngài. Chỉ cần có
lịnh của Ngài là chúng con sẽ đích thân mang đến tận tay Ngài những điều gì
Ngài muốn.
Nhà vua không trả lời, chỉ đăm đăm nhìn voi.
Nhà vua ngắm kỹ làng trắng tinh bạch của lông voi, đôi mắt cương quyết lạ
thường của voi. Một lúc sau vua quay lại các người thợ, nói với họ:
Ðiều ta muốn đòi hỏi ở các ngươi không phải
là gỗ rừng mà chính là con voi đang đứng đàng kia.
Dân làng ngơ ngác. Nhà vua thiếu gì voi mà
phải băng rừng tìm cho được con voi khuân gỗ của họ. Dâng voi cho nhà vua? Họ
thấy không tiếc cái công sức mà voi đã giúp họ, nhưng họ mến thương lòng trung
nghĩa của voi. Tuy vậy họ cũng không dám trái ý vua. Riêng đám trẻ con thì tỏ ý
không bằng lòng. Chúng nghĩ đến những buổi chiều trèo lên mình voi, đùa giỡn
với voi và chúng muốn khóc rống lên.
Mọi người quay nhìn về phía voi đang đứng im
không nhúc nhích. Nó còn món nợ ân nghĩa phải trả đối với thợ rừng. Vua dò được
ý voi và hỏi thăm dân làng. Biết được câu chuyện đầu đuôi, nhà vua càng tỏ ý
khâm phục voi hơn nữa. Rồi nhà vua sai khuân vác lương thực dưới thuyền để
thưởng tặng cho toàn thể dân làng, tặng cho mỗi người đàn bà 2 đồng để sắm áo
quần nói là để trả ơn thay con voi. Nhưng voi chưa chịu đi, nhìn sang các bạn
thiếu niên đang âu yếm nhìn về phía voi rơm rớm lệ. Nhà vua đem tiền túi
phát cho mỗi đứa bé 1 đồng gọi là chút tình đối với các bạn thân mến của voi.
Bọn chúng phải cầm lấy tuy trong lòng không đứa nào thích nhận cái mà hằng ngày
chúng mơ ước.
Lúc bấy giờ voi mới chịu bước đi, voi đến gần
vua, cúi đầu cảm tạ và chịu đi theo đoàn thuyền để trở về kinh thành. Trước khi
lên đường, voi còn nhìn lại toàn thể dân làng và núi rừng quen thuộc một lần
chót, vô cùng lưu luyến.
Ðến kinh thành nhà vua dành cho voi một sự
săn sóc ân cần. Nhà vua gọi là voi Dõng Mãnh bộ giáp trận thật oai vệ. Vua ngồi
trên lưng voi, dạo khắp các đường lớn trong kinh thành trước khi đưa voi về nhà
riêng của nó. Vua xem Dõng Mãnh như người bạn thân thiết và Dõng Mãnh thường
quấn quít bên vua, xem thật hết lòng trung nghĩa.
Ít lâu sau đó, Hoàng hậu có thai. Ngày sanh
đẻ gần đến thì một chuyện đau đớn bất thình lình xảy đến: Vua băng hà. Cả triều
đình đều nhất trí dấu không cho voi hay. Người ta sợ tin buồn này sẽ làm tan vỡ
tim gan Dõng Mãnh. Liền ngày hôm đó, một tin hung dữ khác lại đến làm náo động
cả kinh thành. Ðó là tin quân lính nước Cô Xa La hùng hổ tràn vào, và vua Cô Xa
La định nhân cơ hội Ba La Nại thiếu vua, chưa có người kế nghiệp mà muốn tóm
thâu đất nước, chiếm đoạt ngôi báu. Quân giặc đã vây chặt kinh thành.
Các cửa thành Ba La Nại đóng kín. Triều đình
đã gởi người thương thuyết với vua Cô Xa La hoãn việc tấn công bảy ngày nữa,
chờ Hoàng hậu sanh đẻ, hẹn 2 điều, hoặc là sẽ mở cửa thành khi Hoàng hậu sanh
công chúa, hoặc là sẽ nghinh chiến khi Thái tử ra đời để kế tục ngôi báu. Cô Xa
La bằng lòng.
Ngày thứ bảy đúng theo dự tính của các ngự y.
Hoàng hậu sanh ra được Thái tử. Thế là giòng vua đã có người kế nghiệp. Lệnh
truyền ra cho mọi người sẳn sàng chống giặc. Thái tử mới sinh có tướng mạo khác
thường đã làm vững lòng triều đình. Nhưng chuyện chống giặc, thắng giặc đâu
phải chuyện dễ vì thiếu người điều khiển tối cao. Trong cơn nguy cấp này người
ta còn một hy vọng mạnh mẽ, hy vọng ở tài trí của voi Dõng Mãnh.
Hoàng hậu nghiêm trang trong đồ lễ phục, mặc
áo vàng cho Thái tử và tự tay ẵm Thái tử đi thẳng xuống chỗ voi ở. Nhiều vị
quan trong triều cũng đi theo Hoàng hậu, đặt Thái tử trước mặt voi rồi long
trọng nói với voi:
- Hỡi Dõng Mãnh! Vua ta, chủ của ngươi và
cũng là bạn thân của ngươi đã qua đời. Ta đã bảo dấu không cho ngươi biết tin
đau xót ấy sợ làm đau xót tâm can ngươi. Nhưng mà, ngươi hãy bình tĩnh: Ðây là
Thái tử, con vua, sẽ thay vua để chăm sóc dân chúng, chăm sóc ngươi. Hiện nay,
kinh thành đang bị vây khổn và sắp sửa bị dày xéo bởi quân lính của vua nước Cô
Xa La. Toàn nước ta đang đứng trước hai điều, hoặc là để Thái tử mới sinh phải
chết dưới lưỡi gươm quân địch, hoặc là chúng ta phải gìn giữ non sông gấm vóc.
Hoàng hậu vừa dứt lời, voi Dõng Mãnh rống lên
một tiếng trầm dài não ruột. Bỗng nó đứng dậy, đến bên Thái tử, quỳ xuống, lấy
vòi nâng Thái tử lên cao rồi đặt xuống trên bắp thịt trước trán nó. Voi muốn
nói sự tôn thờ trung nghĩa của nó đối với người chủ bé nhỏ cũng như trước đây
nó đã hết lòng với vua cha.
Voi trao Thái tử cho Hoàng hậu rồi phủ phục
chờ lịnh. Hoàng hậu khoát tay cho nó đứng dậy và dặn: “Hỡi voi Dõng Mãnh. Bây
giờ là lúc ngươi hành động để tỏ lòng trung nghĩa của ngươi, để tỏ giòng máu
quật cường trong ngươi trong một con voi chính thống” Hoàng hậu vẫy tay cho nó
lên đường. Một vị đại thần mặc áo giáp cho voi, và xuống lệnh cho quân lính sẳn
sàng.
Voi rống lên hùng dũng, rung chuyển cả không
gian. Tiếng rống xuất trận của một con voi chính thống đã làm bầy voi địch nhớn
nhác. Bây giờ là lúc đánh bật quân địch. Người ta mở cửa thành cho voi xông ra.
Voi Dõng Mãnh rống lên một lần nữa. Thật là kinh hoàng. Bầy voi tiên phong của
Cô Xa La khiếp sợ. Trong giây phút, tất cả đều quay đầu về phía sau, cướp đường
mà chạy. Hàng ngũ địch rối loạn nhanh chóng. Voi Dõng Mãnh lanh lắm. Nó xông
tới trước mặt vua nước Cô Xa La, lấy vòi nắm chặt thân vua và quay trở về trong
lúc quân địch hoàn toàn tan rã. Thế là trận đánh kết liễu và thắng lợi thuộc về
nước Ba La Nại.
Voi Dõng Mãnh đặt vua giặc dưới chân Thái tử
mới sinh chờ triều đình xét xử. Dân cúng đòi phải xử tử tên vua xâm lược tàn
bạo. Nhưng Hoàng hậu thể theo sự thông cảm của mình đối với Thái tử truyền thả
vua Cô Xa La được trở về xứ sở với điều kiện là từ nay về sau, không được lợi
dụng Thái tử còn nhỏ mà trả thù buổi thất trận này. Voi Dõng Mãnh rống lên tỏ ý
bằng lòng sung sướng.
Từ đấy, nhờ voi Dõng Mãnh mà Thái tử mới còn
niên thiếu đã truyền được sự tin cậy trong toàn thể các nước ở Ấn Ðộ, trị nước
một cách công minh.
Quảng Huệ
“Tình thương sẽ thắng hận thù,
Chùa thiêng phải dựng ngục tù phải tan”